[Sách Hay] Giải Phóng Các Cơn Đau - Từ Tư Thế Nói Lên Tính Cách Hướng Nội Ngoại Của Một Người

Bảo Hân
Đăng ngày 18/04/2021
1,207 Lượt xem
0 Người yêu thích
Thêm vào yêu thích

Từ ảnh số 18 bên dưới bạn có thể thấy được cậu bé bên trái tràn đầy niềm tin, dường như rất vui vẻ khi trở thành tâm điểm khi được chụp ảnh. Từ những cử chỉ của cậu, chúng ta có thể cảm nhận được nội tâm của cậu: khi đứng thẳng người, vùng hông trên cơ thể hơi đẩy về phía trước, hai tay chống hông, vùng ngực và bụng giữ tự nhiên và mở rộng. Tư thế thả lỏng tự nhiên cùng với nụ cười tươi của cậu cũng đã giúp cậu trở nên đầy tự tin hơn, không hề lo âu, đồng thời cởi mở với người xung quanh hơn.


Ngược lại, cậu trai bên phải bức ảnh trông có vẻ ngại ngùng và căng thẳng, mặc dù cậu không mong muốn mình được lên hình nhưng vẫn ép buộc bản thân mỉm cười, do đó cố tạo ra một khuôn mặt dũng cảm, nhưng phần vai trên lại co khép lại, vùng ngực khép kín, đồng thời đẩy hai vai lên cao, tất cả những biểu hiện trên đều làm hiện ra một thái độ lo âu sợ hãi của cậu. Nếu như gặp phải một kẻ xấu, cậu bé này rất có thể sẽ bỏ chạy để thoát thân, ngoại trừ người bạn bên phải của cậu đứng ra bảo vệ cậu.

Tại sao chúng ta có thể nhìn ảnh là đã có thể nhận định được sự khác biệt này? Bởi vì, tư thế, biểu hiện trên khuôn mặt và động tác của một người có thể truyền đạt những cảm nhận và suy nghĩ bên trong cơ thể. Các nhà khoa học nói rằng, trong giao tiếp thì các thông tin và tín hiệu “phi ngôn ngữ” thường chiếm từ 60% đến 93%, điều này có thể giải thích một hiện tượng thường gặp đó là vì sao khi giao tiếp qua thư điện tử hay tin nhắn, chúng ta thường sử dụng những biểu tượng cảm xúc để bày tỏ tâm trạng và cảm nhận?

Cử chỉ/ngôn ngữ cơ thể (body language) không chỉ giới hạn trong sự giao tiếp giữa con người với nhau, mà bản chất thực sự của chúng liên quan chặt chẽ với trạng thái cảm xúc của chúng ta. Mặc dù khi ở một mình, không bị người khác bắt gặp thì những cảm xúc của chúng ta vẫn không ngừng biểu hiện ra ngoài nhờ vào cử chỉ và tư thế cơ thể.

Nếu như khi chúng ta muốn dối gạt một người nào đó, hay muốn để lại một ấn tượng tốt về bản thân trong mắt người khác thì theo bản năng của con người, chúng ta thường cố che đậy phần ngôn cơ thể của bản thân, chẳng hạn cậu bé bên phải bức của ảnh 18: mặc dùn cảm thấy không được tự tại, nhưng cậu vẫn cố mỉm cười, tuy nhiên nụ cười gượng của cậu vẫn không thể nào che đậy những thông tin lộ ra từ cử chỉ của cơ thể; chính vì những phản ứng khép nép, gượng gạo của cậu đã đẩy cậu vào một tư thế không tự nhiên.

Cũng như bất kì một động tác theo thói quen nào đó, từ việc rèn luyện có ý thức lặp đi lặp lại một động tác nào đó có thể giúp chúng ta cải thiện ngôn ngữ cơ thể. Trên thực tế, việc rèn luyện này cũng khá có ích cho việc điều chỉnh cảm nhận bên trong chúng ta. Năm 2010, một nhóm nhà khoa học của trường đại học Colombia bao gòm Amy Cuddy, Dana Carney và Andy Yap đã tiến hành thí nghiệm “Tạo dáng mạnh mẽ” (Power posing), kết quả nghiên cứu của họ khi đưa vào cuộc sống thực tiễn của con người làm chúng ta không khỏi ngạc nhiên.

Trong thí nghiện này, đối tượng tham gia nghiên cứu được yêu cầu phải tạo dáng ngồi của một người có vị trí và quyền lực cao và người có chức vụ thấp. Tư thế của người có quyền uy sẽ mở rộng và hướng ra ngoài, điều này cũng có nghĩa là đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ mở rộng cơ thể họ nhằm chiếm nhiều không gian hơn, đồng thời làm cho tứ chi có cảm giác rời khỏi trung tâm cơ thể (tương tự như phản ứng di chuyển của cơ thể). Ngược lại, khi họ thực hiện tư thế của người có chức vụ thấp, cơ thể sẽ khép lại và chiếm khá ít không gian, đồng thời tứ chi tiến gần trung tâm cơ thể hơn (tương tự phản ứng co lại).

Từ nghiên cứu có thể đo lường được nồng độ cortisol và testosterone trước và sau khi thực hiện tư thế yêu cầu trong thí nghiệm. Nồng độ cortisol ở người có địa vị và chức vụ thấp thường sẽ cao hơn người ngồi ở địa vị cao hơn họ, và nồng độ testosterone có liên quan đến khả năng quyết đoán của một người, theo kết quả nghiên cứu thì người có uy quyền sẽ có nồng độ hóc môn testosterone cao hơn và sẽ tạo tư thế đầy tự tin hơn.

Khi tạo dáng đầy tự tin, nồng độ testosterone sẽ gia tăng, đồng thời cortisol sẽ giảm xuống, và ngược lại. Sự biến đổi của hai loại hóc môn này sẽ thay đổi theo cảm xúc của chúng ta, ở nhóm người đầy tự tin sẽ tạo dáng mạnh mẽ và sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm cho dù là đánh một ván bài thắng thua hay cá độ. Ngoài ra, điều làm chúng ta khó tin đó là, chỉ trong vòng hai phút ngắn ngủi của sự thay đổi tư thế đã có thể lập tức ảnh hưởng đến cảm giác, hành vi, thậm chí nồng độ hóc môn trong cơ thể con người.

Nếu như chỉ cần hai phút thay đổi tư thế có thể dẫn đến sự thay đổi cự lớn về mặt hóc môn, cảm xúc và cử chỉ của cơ thể, thì bạn hãy tưởng tượng xem việc duy trì không thay đổi một tư thế trong suốt một khoảng thời gian dài sẽ có ảnh hưởng lớn như thế nào trong đời sống hàng ngày của chúng ta?

Tạo dáng mạnh mẽ khá hữu ích trong việc giảm sự cảm nhận từ các cơn đau, bởi vì chúng tạo nên sự khống chế cảm giác. Nghiên cứu chỉ ra rằng, một khi chúng ta cảm thấy bản thân có đủ năng lực khống chế toàn bộ tình huống thì chúng ta sẽ chịu đựng các cơn đau giỏi hơn; ngược lại, khi chúng ta không thể khống chế tình huống thì sự chịu đựng sẽ trở nên kém đi. Tạo dáng mạnh mẽ sẽ làm gia tăng hàm lượng testosterone, từ đó sẽ mở rộng ngưỡng chịu đau của cơ thể.

Mặc dù động tác của cơ thể có ảnh hưởng đến cảm nhận bên trong và cử chỉ bên ngoài của cơ thể, đặc biệt là những động tác đã thành thói quen. Như vậy, liệu chúng ta có thể căn cứ vào bản tính của một người để phán đoán xem họ có thể sẽ tạo thành những thói quen nào không? Câu trả lời là CÓ. Theo lời các nhà nghiên cứu của trường Đại Học McGill và San Diego, trong một nghiên cứu so sánh giữa tính cách và tư thế của con người, tư thế vào tính hướng ngoại của một người có mối liên quan mật thiết với nhau.

Các nhà nghiên cứu dựa vào 4 tư thế được hình thành từ thói quen của những đối tượng tham gia nghiên cứu, kết quả như hình 19: tư thế lý tưởng, tư thế với vùng sống lưng sau ngực tạo thành vòm cong đẩy về phía sau cùng với vùng eo đẩy về trước, tư thế gù lưng (sway back), tư thế biến dạng phẳng (flat back). Nghiên cứu cho thấy, ở nhóm người có tư thế lý tưởng là nhóm người hướng ngoại với tỷ lệ 96%, nhóm người thứ hai có số người hướng ngoại là 83%. Mặt khác, những người hướng nội thường rơi khá nhiều vào hai nhóm người có tư thế cong lưng và biến dạng phẳng.


Kết quả nghiên cứu của những nghiên cứu trên tương đối quan trọng, nếu như bạn quan sát một cách tỉ mỉ ở vùng lưng và hông thì sẽ phát hiện người có xu hướng hướng ngoại sẽ duy trì môt tư thế mà phần hông giữ thẳng và hơi đẩy về trước, điều này sẽ giúp cho phần lưng dưới hình thành một đường cong tự nhiên hoặc rộng lớn hơn. Hay nói một cách khác, tuýp người này sẽ cởi mở và tự tin với bản thân hơn do phản ứng tích cực từ việc tạo dáng mạnh mẽ.

Song, ở những người hướng nội sẽ có vùng cơ bụng co khép rất mãnh liệt, làm cho vùng hông bị đẩy về phía sau, san bằng đường cong tự nhiên vốn có của hông, đồng thời làm thay đổi hình dạng của chúng, dẫn đến dạng lưng cong và lưng phẳng. Các nhà nghiên cứu cho biết, trương lực cơ bắp của ba loại tư thế sau lớn hơn rất nhiều so với tư thế lý tưởng. Điều này thực ra cũng không làm cho bạn ngạc nhiên phải không nào? Bởi vì chúng ta điều hiểu rằng, cơ bắp bắt buộc phải duy trì trạng thái co lại mới có thể giúp cơ thể giữ nguyên trạng thái không tự nhiên của nó, đồng thời chúng ta cũng có thể đoán ra rằng so với nhóm người có tư thế lý tưởng thì ba nhóm người còn lại rất dễ cảm thấy đau ở vùng lưng và bả vai.

Những đặc trưng về mặt cảm xúc và cử chỉ của mỗi người sẽ tạo nên diện mạo đặc trưng cho cá nhân đó, cũng có thể nói đó là “tính cách” của người đó, và tính cách sẽ là yếu tố giúp chúng ta xác định những tư thế và động tác đặc thù cá nhân. Một khi chúng ta lặp đi lặp lại nhiều lần những động tác và tư thế này thì chúng sẽ trở thành thói quen cắm rễ ăn sâu vào bên trong cơ thể. Ngày qua ngày, những thói quen này sẽ ảnh hưởng đến cảm giác và cử chỉ của chúng ta. “Tính cách” và “động tác mang tính thói quen” này sẽ tác động kép lên tư thế đứng, di chuyển, cảm giác và các hình thức hoạt động theo thói quen.

Điều đó có nghĩa là, bạn cũng có thể áp dụng những tư thế tốt cho cơ thể để điều chỉnh tính cách của bản thân. Thông qua việc giải phóng những trương lực tích lũy lâu ngày bên trong cơ bắp, cải thiện tư thế và áp dụng các động tác đúng đắn cho cơ thể sẽ giúp cải thiện tính chống chọi với các cơn đau, giúp bạn tự tin hơn, đồng thời bạn cũng sẽ cảm giác được áp lực cơ thể trở nên ít đi.

Mối liên hệ giữa tư thế và cảm xúc

Hãy thử một vài phương pháp sau sẽ giúp bạn cải thiện tư thế và cải thiện một cách nhanh chóng những ảnh hưởng đến cảm xúc của bạn:

  1. Tạo dáng trầm tư (Feel blue): để cho vùng ngực thả xuống, co cơ bụng, đồng thời đẩy hai vai về trước. Khi thực hiện tư thế này, bạn có cảm giác như thế nào? Liệu bạn có chú ý đến cảm xúc và cảm giác của mình không? Tư thế này có tạo áp lực lên vùng cổ, vai và lưng dưới của bạn không? Bạn có cảm thấy cơ thể bắt đầu xuất hiện các cơ đau ở bất cứ vùng nào không?
  2. Tạo dáng mạnh mẽ (Power posing): Chống hai tai của bạn lên hông và ưỡn ngực, đầu hơi hướng lên trên, đồng thời vùng hồng đẩy nhẹ về trước, hoặc cố tình đẩy lưng dưới về sau. Bạn cảm giác như thế nào khi thực hiện tư thế này? Bạn có chú ý đến sự thay đổi trong cảm xúc và cảm nhận của bạn không? Liệu tư thế này có tạo thành áp lực cho vùng cổ, vai và lưng dưới của bạn không? Hay bạn cảm thấy đau ở vùng nào đó trên cơ thể mình?
  3. Hãy cân nhắc về cách nghĩ và cảm nhận của bạn ảnh hưởng như thế nào đến những tư thế và động tác hình thành từ thói quen lặp đi lặp lại của bản thân. Hãy bỏ ra một ngày trọn vẹn bắt đầu chú ý đến những thay đổi từ tư thế ảnh hưởng đến cảm nhận của chúng ta. Hãy cảm nhận xem liệu có một số tư thế hay động tác nào đó có lẽ sẽ làm bạn khẩn trương, căng thẳng hoặc làm tăng cảm giác đau không?


Đôi nét về tác giả

Sarah Warren là người đề xướng tổng hợp Giáo Dục Tâm Sinh Lý Vận Động Hoa Kỳ (Somatic Education), là chuyên gia về mặt giáo dục tâm sinh lý lâm sàng, đồng thời cũng là người phục trách của trung tâm giáo dục này. Chủ trương giáo dục theo phương pháp “Tâm Sinh Lý Lâm Sàng” (Clinical Somatic Education) của Thomas Hanna, cô đã giúp rất nhiều học viên thoát khỏi nỗi khổ thường niên quanh vùng lưng, cổ, vai, mông, khớp gối và các hội chứng đau thần kinh tọa hay vẹo xương sống,…

Sarah từ nhỏ đã theo học múa ba lê tại trường chuyên múa Boston và Học Viện âm nhạc Boston, chính khoảng thời gian 10 năm học múa (từ ba lê cho đến thể loại hiện đại) đó đã khơi dậy trong cô sự tìm tòi và khám phá mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể. Vào đại học cô chuyển sang lĩnh vực nghệ thuật thị giác và tốt nghiệp với tấm bằng kỹ sư kiến trúc nội thất. Sau khi tốt nghiệp đại học, cô đã làm việc suốt 6 năm trong lĩnh vực thiết kế, những áp lực ồ ạt từ công việc khiến cho cô rời khỏi cơ thể mình ngày càng xa, cùng với chấn thương lâu năm ở vùng lưng do khiêu vũ đã tạo nên mối cơ duyên của cô với Yoga, sau nhiều năm tập luyện đã giúp cô trở thành giáo viên Yoga. Vào năm 2008, cô biết đến Tâm Sinh Lý Học (Somatics), là môn học kết hợp giữa kỹ thuật tổng hợp ứng dụng Alexander (Alexander Technique), phương pháp Feldenkrais (Feldenkrais Method), cùng với vũ đạo và triết học Yoga. Chính ngành học nghệ thuật mới mẻ này đã tạo nên những quan điểm hoàn toàn mới trong cô về mặt tâm, sinh lý, hiện tượng lão hóa của cơ thể con người. Những bài tập của Tâm Sinh Lý Học dựa chủ yếu trên những khái niệm tâm sinh lý con người, là con đường tốt nhất giúp bảo vệ và ngăn ngừa những căn bệnh thời đại của cái xã hội công nghệ hóa ngày nay. Với khẩu hiệu “Yoga không đau đớn”, Sarah đã đẩy mạnh những khóa học Yoga lành mạnh và an toàn của cô.

Sơ lược về sách

Đây là một quyển sách khám phá những cơn đau khoa học. Từ việc tìm hiểu mối liên hệ giữa cơ chế hình thành các cơn đau và hệ thống thần kinh của não, cùng với cơ cấu cơ bắp và khớp xương cho đến việc hình thành các cơn đau trường kỳ và cơ chế thoái hóa của cơ thể, chuyên gia tâm sinh lý học Sarah Warren cũng đề xuất giải pháp lâm sàng tâm sinh lý học nhằm cải thiện hệ thống thần kinh từ việc tập luyện, làm giảm những cơn đau nhức thường ngày của bệnh nhân.

Quyển sách này đưa độc giả đi từ góc độ khoa học thần kinh, tìm hiểu các cơ chế hoạt động, đồng thời dạy bạn tận dụng “Tính khả biến thần kinh” (Neuroplasticity) hay còn được hiểu nôm na là tính dẻo dai của não, thông qua một số phương pháp tập luyện tâm sinh lý, thúc đẩy năng lực quan sát và cảm giác của cơ thể, học tập những phương pháp ứng dụng linh hoạt cơ thể thay thế cho những thói quen tự nhiên cứng nhắc của nó nhằm đưa bạn trải nghiệm sự thả lỏng, tính linh động, cảm giác thoải mái và đầy năng lực của cơ thể chúng ta, từ đó có thể giúp bạn hoàn toàn lấy lại được quyền làm chủ cho cơ thể mình.


Nguồn: Running Biji